Cải biến Tribal (lớp tàu khu trục) (1936)

Hải pháo QF 4-inch Mk XVI nòng đôi trên chiếc HMCS Haida

Cải biến trong chiến tranh

Hải quân Hoàng gia Anh trang bị cho lớp Tribal một dàn hỏa lực phòng không tương đối mạnh; cả tám khẩu pháo 4,7 inch (120 mm) đều có thể đối đầu với máy bay với hỏa lực dự đoán bởi một máy tính FKC, và do đó cung cấp một sự bổ sung mạnh mẽ cho việc phòng không của hạm đội chiến trận.[14] Vũ khí phòng không tầm gần gồm một dàn pháo 2-pounder bốn nòng và hai dàn súng máy Vickers bốn nòng là một bước tiến đáng kể so với các lớp tàu khu trục trước đó[15] và mạnh hơn vũ khí tầm gần của hầu hết tàu khu trục các nước khác vào năm 1939.[7][16] Tuy nhiên, trước chiến tranh, Hải quân Hoàng gia suy đoán rằng các tàu khu trục sẽ hoạt động chủ yếu như là tàu hộ tống cho hạm đội chiến trận,[14] và không phải là mục tiêu chính cho các cuộc không kích. Các sự kiện sau đó cho thấy tàu khu trục thường hoạt động độc lập và trở thành mục tiêu chính cho các cuộc tấn công của Không quân Đức, đặc biệt là bởi máy bay ném bom bổ nhào. Sau khi Afridi và Gurkha bị mất, những chiếc còn lại được tái trang bị để cải thiện tình hình. Tháp pháo "X" trang bị pháo 4,7 inch (120 mm) trên mỗi chiếc được tháo dỡ để thay bằng pháo QF 4-inch Mk XVI nòng đôi trên bệ góc cao/thấp (HA/LA) Mark XIX.[2] Cột ăn-ten chính được cắt ngắn và ống khói phía sau được hạ thấp để cải thiện góc bắn vũ khí phòng không. Khi đã sẵn có, pháo tự động Oerlikon 20 mm phòng không được tăng cường, trước tiên là bổ sung, và sau đó là thay thế cho súng máy 0.5 inch. Trữ lượng mìn sâu mang theo cũng tăng thêm, từ 30 lên 46 quả.[2] Ngoài ra, lớp Tribal thoạt tiên có vấn đề rò rỉ các bồn nước động cơ; điều này là do những vấn đề của cánh turbine gây ra bởi áp lực lên cấu trúc khi chạy tốc độ cao lúc thời tiết xấu.[17]

Đến năm 1944, bốn chiếc lớp Tribal của Anh còn sống sót được trang bị một cột ăn-ten trước cao dạng lưới để mang radar Kiểu 293 chỉ thị mục tiêu và radar Kiểu 291 cảnh báo trên không, cùng một radar Kiểu 285 được bổ sung vào bộ điều khiển-đo tầm xa. Hai chiếc đầu tiên do Canada chế tạo, Micmac và Nootka, được trang bị ba bệ pháo 4,7 inch (120 mm) nòng đôi và một bệ 4 inch (100 mm) nòng đôi như là tiêu chuẩn vào thời đó, với bệ pháo 4,7 inch (120 mm) được trang bị điều khiển kíp nổ phòng không cải tiến;[18] trong khi hai chiếc Tribal do Canada chế tạo sau cùng có tám nòng pháo QF 4-inch Mk XVI R.P.C. và từ bốn đến sáu khẩu Bofors 40 mm như là tiêu chuẩn, cùng một bộ điều khiển hỏa lực Mk VI.[2]

Cải biến sau chiến tranh

Sau chiến tranh, những chiếc còn sống sót trong lớp Tribal gặp phải những số phận khác nhau: những chiếc của Hải quân Hoàng gia Anh được cho nghỉ hưu vào những năm 1950, trong khi những chiếc của hải quân Australia và Canada tiếp tục phục vụ, nhiều chiếc được tái trang bị như những tàu khu trục chống tàu ngầm.[2] Những chiếc Tribal của Canada chế tạo tại Anh được tháo dỡ các khẩu pháo 4,7 inch (120 mm), thay thế bằng kiểu hải pháo QF 4 in (100 mm) Mk XVI trên các bệ nòng đôi tại các vị trí "A" và "B" để cải thiện khả năng phòng không,[19] một cặp súng cối Squid để chống tàu ngầm,[20] cùng một khẩu đội 3 in (76 mm)/50 Mark 33 nòng đôi tại vị trí "X" để phòng không.[21] Cảm biến radarsonar cũng được nâng cấp cho vai trò mới, và sau khi tái trang bị, những chiếc Tribal của Canada đã tiếp tục phục vụ cho đến những năm 1960.[2]

Hai chiếc Tribal của Australia, Arunta và Warramunga, được hiện đại hóa vào đầu những năm 1950.[22] Khẩu pháo 4,7 inch (120 mm) tận cùng phía đuôi được tháo dỡ, chỗ trống được cải thiện để trang bị súng cối Squid chống tàu ngầm.[22] Các bộ sonar và radar mới cũng được trang bị, trong đó radar mới đòi hỏi phải thay cột ăn-ten dạng ba chân thành cột ăn-ten dạng lưới.[22] Mặc dù được dự kiến chỉ mất sáu tháng để hoàn tất, việc hiện đại hóa mỗi con tàu đã cần đến hai năm để hoàn thành, khi mà những thiết bị cải biến đã tỏ ra lạc hậu.[23] Những giới hạn ngân sách đã khiến cho việc hiện đại hóa chiếc Tribal thứ ba của Australia, Bataan, không được thực hiện; và một sự kết hợp của việc thiếu hụt nhân lực và tình trạng lạc hậu nhanh chóng đã khiến cho cả ba chiếc trong lớp được cho ngừng hoạt động vào cuối những năm 1950.[22][23]